Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

Mở rộng phạm vi sửa đổi Luật Kế toán

Dự thảo Luật Kế toán (sửa đổi) dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 10 vào tháng 10 tới đây. Về điều kiện được cấp chứng chỉ kế toán viên nhận được nhiều ý kiến, trong báo cáo mới đây, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách và Cơ quan soạn thảo - Bộ Tài chính cho biết, quy định trong dự thảo Luật không giới hạn chỉ người có chứng chỉ kế toán viên mới được làm công tác kế toán nên không ảnh hưởng đến công việc của người làm kế toán có trình độ cao đẳng, trung cấp.

Thống nhất tiếp thu nhiều nội dung
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 36, ý kiến thảo luận của Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách (TCNS) đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện một bước Dự thảo luật. Đến nay, phần lớn các nội dung đã được thống nhất giữa Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo.
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung Luật: Nhiều ý kiến ĐBQH đề nghị sửa đổi toàn diện và đổi tên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán thành Luật Kế toán (sửa đổi). Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để bảo đảm tính bao quát, ổn định của Luật, tránh tình trạng sửa đổi thiếu toàn diện, gây khó khăn trong quá trình thực hiện, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất mở rộng phạm vi sửa đổi đối với nhiều nội dung của Luật hiện hành và đổi tên gọi của Luật thành Luật Kế toán (sửa đổi).
Liên quan đến quy định về hành nghề dịch vụ kế toán, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất bổ sung quy định cho phép cá nhân kinh doanh dịch vụ kế toán; quy định rõ và đầy đủ hơn về điều kiện hành nghề của doanh nghiệp dịch vụ kế toán nước ngoài; bổ sung trách nhiệm của cá nhân, doanh nghiệp hành nghề dịch vụ kế toán; rút ngắn thời hạn cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán xuống còn 15 ngày...
Quy định về chuẩn mực kế toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất cho rằng, chuẩn mực kế toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán bao gồm các nguyên tắc và phương pháp kế toán, được quy định rất chi tiết, cụ thể; số lượng các văn bản hiện hành quy định về chuẩn mực kế toán rất nhiều, khó có thể luật hóa. Do đó, hai cơ quan này đề nghị được giữ như quy định của Dự thảo Luật. Theo đó, Dự thảo luật chỉ quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc và giao Bộ Tài chính ban hành chuẩn mực kế toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán trên cơ sở tham khảo chuẩn mực quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Không ảnh hưởng tới việc làm của kế toán trình độ cao đẳng, trung cấp
Về hành nghề dịch vụ kế toán, có ý kiến đề nghị xem lại quy định về điều kiện được cấp chứng chỉ kế toán viên vì doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ thuê kế toán trung cấp, không nhất thiết phải thuê người có trình độ đại học. Quy định như Dự thảo Luật sẽ khiến nhiều người có trình độ trung cấp, cao đẳng kế toán không có việc làm.
Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo cho biết, đây là quy định áp dụng cho những người muốn trở thành kế toán viên, kế toán viên hành nghề để kinh doanh dịch vụ kế toán, không áp dụng bắt buộc cho tất cả các cá nhân làm công tác kế toán. Dự thảo Luật cũng không giới hạn chỉ người có chứng chỉ kế toán viên mới được làm công tác kế toán nên sẽ không ảnh hưởng đến công việc của người làm kế toán có trình độ cao đẳng, trung cấp. Do đó, xin cho giữ như quy định của Dự thảo Luật.
Về quy định không cho phép loại hình hợp tác xã, doanh nghiệp cổ phần kinh doanh dịch vụ kế toán, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo cho biết: Dự thảo Luật quy định theo hướng chủ sở hữu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán phải là các cá nhân có chứng chỉ hành nghề để bảo đảm chất lượng cung cấp dịch vụ. Theo đó, không quy định Hợp tác xã thuộc loại hình doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ kế toán vì đây là hình thức sở hữu tập thể; đối với công ty cổ phần, đây là loại hình doanh nghiệp không bị giới hạn về cổ đông, phần vốn góp không bị hạn chế, ràng buộc trong chuyển nhượng, dẫn đến không đảm bảo nguyên tắc gắn trách nhiệm của người góp vốn với trách nhiệm nghề nghiệp, không đảm bảo tính độc lập của dịch vụ kế toán. Vì vậy, đề nghị giữ như quy định của Dự thảo luật.
Trong quá trình thảo luận tại Quốc hội, có ý kiến cho rằng, Luật Doanh nghiệp quy định một doanh nghiệp có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Việc Dự thảo Luật quy định “người đại diện theo pháp luật ... phải là kế toán viên hành nghề” có được hiểu là tất cả những người đại diện theo pháp luật phải là kế toán viên hành nghề hay không?
Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo cho rằng, loại hình kinh doanh dịch vụ kế toán là loại hình kinh doanh có điều kiện, đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ cao về kế toán. Tuy nhiên, Luật Kế toán hiện hành không yêu cầu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là kế toán viên hành nghề đã dẫn đến tình trạng người không có chuyên môn là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ kế toán. Do đó, để tăng cường chất lượng cung cấp dịch vụ, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và các quy định của một số ngành, nghề có tính chuyên ngành cao (nhiều ngành nghề khác ở Việt Nam hiện nay đều đã có quy định người đại diện theo pháp luật phải là người hành nghề như luật sư, kiểm toán, thẩm định giá, công chứng,…), Dự thảo Luật đã quy định theo hướng người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là kế toán viên hành nghề và một doanh nghiệp có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật song phải có ít nhất 01 người là kế toán viên hành nghề.
Đối với đề nghị không bổ sung giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán, Thường trực Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo cho biết, theo quy định hiện hành, do chỉ dừng ở khâu đăng ký, không cấp Giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán nên đã phát sinh nhiều bất cập trong thực tiễn, khó khăn trong kiểm soát cá nhân, tổ chức khi hành nghề. Đây là loại hình kinh doanh có điều kiện nên việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ sẽ góp phần tăng cường quản lý đối với loại hình dịch vụ này.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị tiếp thu ý kiến ĐBQH, bỏ quy định về giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Dự kiến, dự thảo Luật Kế toán (sửa đổi) sẽ trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XIII vào tháng 10 tới.
Theo mof.gov.vn

NHẬN BIẾT DẤU HIỆU CHUYỂN GIÁ


Hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đã và sẽ diễn ra ở nhiều dạng với các thủ thuật khác nhau theo các giai đoạn đầu tư, loại hình đầu tư, lĩnh vực - sản phẩm đầu tư, thời gian đầu tư…


Chuyển giá là sự kết cấu về giá cả xuyên quốc gia và chỉ có thể thực hiện được khi có cấu kết giữa các công ty độc lập giữa các quốc gia đầu tư và tiếp nhận đầu tư để đưa ra mức giá hàng hóa, dịch vụ cao hơn nhiều giá trị thực và cao hơn giá bình thường, nhằm tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, tránh quy định về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thu hồi vốn đầu tư nhanh…
Để thực hiện được các mục tiêu này, doanh nghiệp FDI thực hiện chuyển giá thông qua việc định giá cao khi nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… và giá bán thấp khi xuất khẩu sản phẩm bất chấp doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư, dù là có vốn của họ, không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ, để sau khi thu hồi vốn đầu tư, đạt được mục tiêu lợi nhuận, thì có thể dừng hoạt động, bán lại doanh nghiệp, hoặc giải thể, phá sản.
Đối với các nhà đầu tư đã có ý đồ chuyển giá, ngay từ đầu, trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật của dự án, họ đã chủ động tăng giá đầu vào (máy móc, thiết bị, bí quyết kỹ thuật, sáng chế phát minh…) để tạo giá trị khủng về tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất và kinh doanh sau này, giá cả máy móc thiết bị mới khi cần bổ sung, thay thế (kể cả trong các trường hợp tăng vốn mở rộng sản xuất) đều được khai vống giá, tạo nên giá trị ảo về vốn (giá trị đầu tư thật của một nhà máy, dự án tất nhiên sẽ thấp hơn nhiều giá trị ảo được đăng ký). Mức khấu hao được tăng lên, do vậy giá thành cũng cao lên, lợi nhuận thấp, hoặc không có lợi nhuận và doanh nghiệp sẽ bị lỗ.
Một hiện tượng phổ biến khác của chuyển giá là việc các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất - kinh doanh kê khai giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng các chi phí khác (chi phí quảng cáo, khuyến mại), nhằm triệt tiêu lợi nhuận. So với các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề, có thể thấy, chi phí của các doanh nghiệp FDI thường cao hơn bất thường; còn có doanh nghiệp lợi dụng ưu đãi của Việt Nam cho giảm trừ phần chi phí cho hoạt động quảng cáo, khuyến mại, nên đã tận dụng việc này, tuyên truyền quảng cáo cho cả công ty mẹ.
Sử dụng chi phí trả lãi tiền vay cũng là một cách làm khác mà các doanh nghiệp FDI sử dụng. Công ty mẹ đưa nguyên vật liệu, vật tư linh kiện đầu vào mà ở Việt Nam chưa sản xuất được hoặc chất lượng chưa đảm bảo, công ty ở Việt Nam báo cáo không có tiền lấy hàng, công ty mẹ cho trả chậm để sau khi bán sẽ trả, thời gian trả chậm đó phải có lãi. Việc này được doanh nghiệp coi là trả lãi tiền vay. Nên khi doanh nghiệp bán hàng ra có lãi đều tính vào chi phí trả lãi tiền vay, dẫn tới hết lãi. Phần lãi thực, thông qua trả lãi, đã chuyển hết ra ngoài cho công ty mẹ.
Dấu hiệu khác để nhận biết hiện tượng chuyển giá là doanh nghiệp lỗ liên tục nhiều năm, nhưng doanh thu tăng, hoạt động sản xuất mở rộng. Có thể có các doanh nghiệp đã chủ động để lỗ 3 năm, sau đó 1 - 2 năm có lãi ít, để rồi lũy kế vẫn lỗ. Cách biến lãi thành lỗ, hoặc sắp đặt mức lãi thấp, các doanh nghiệp FDI không thể làm việc riêng lẻ, mà thường phối hợp, liên kết trong cùng tập đoàn, hoặc từng nhóm. Các doanh nghiệp này tự dàn xếp giá với nhau thông qua các giao dịch liên kết. Thông qua các giao dịch liên kết này, các công ty trong nhóm cùng giảm được tổng nghĩa vụ thuế trên phạm vi toàn cầu, tăng được lợi nhuận sau thuế.
Một khả năng khác để các doanh nghiệp FDI thực hiện hành vi chuyển giá là lựa chọn một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới có mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp thấp để làm địa điểm đặt trụ sở đăng ký đầu tư vào Việt Nam. Họ lợi dụng sự khác biệt thuế suất giữa các quốc gia, khu vực để trốn thuế. Ở nhiều quốc gia tiếp nhận đầu tư có thuế suất cao, như Việt Nam hiện nay, có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, trong khi nhiều quốc gia khác mức thuế này chỉ trên dưới 10%, thậm chí nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Anh quốc, UAE…, thuế suất chỉ 0%. Các chủ đầu tư sẽ lấy địa chỉ đăng ký đầu tư vào Việt Nam tại các quốc gia, khu vực có thuế suất thấp, công ty tại Việt Nam sẽ bán sản phẩm cho công ty mẹ tại các quốc gia này với giá bằng giá gốc để tránh nộp thuế tại Việt Nam. Sau đó, bên mua sẽ bán lại cho bên thứ ba thu lãi. Do thuế thu nhập doanh nghiệp tại những quốc gia nơi nhà đầu tư đăng ký đầu tư vào Việt Nam bằng 0, hoặc ở mức rất thấp, nên doanh nghiệp không phải đóng thuế hoặc đóng thuế rất thấp.
Hành vi chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI tại Việt Nam sẽ để lại các hậu quả xấu trong hoạt động của khu vực FDI, như làm thất thu ngân sách, cạnh tranh không lành mạnh, tạo sức ép lên các doanh nghiệp tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế…, nhưng từ việc xác định có hiện tượng, có hành vi chuyển giá để đi đến một quyết định có tính pháp lý là một việc cực kỳ khó. Vì vậy, cần có sự phối hợp hành động chặt chẽ của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính, thuế, thương mại, hải quan… ở Trung ương và địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng giám sát hoạt động của doanh nghiệp FDI, mới có thể ngăn chặn hiệu quả hành vi chuyển giá tại một số doanh nghiệp FDI.


Eximbank rút hết người khỏi Sacombank


Ông Hà Thanh Hùng, Phó chủ tịch thường trực hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), ngày 21-10 đã ký quyết định về việc thôi cử người đại diện phần vốn góp của Eximbank tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín (Sacombank) là ông Nguyễn Vạn Lý và ông Hà Tôn Trung Hạnh.

Quyết định nêu rõ, “Tại thời điểm này Eximbank không còn người đại diện phần vốn góp tại Sacombank.”
Eximbank chính thức mua lại 9,73% cổ phần của Sacombank như một khoản đầu tư từ năm 2012. Sau đó, Eximbank cử ba người gồm ông Phạm Hữu Phú, ông Nguyễn Vạn Lý và ông Hà Tôn Trung Hạnh làm người đại diện phần vốn góp tại Sacombank. Ông Phú đại diện 8% vốn, ông Nguyễn Vạn Lý đại diện 0,73% vốn và ông Hà Tôn Trung Hạnh đại diện 1% vốn.
Tháng 3-2014, ông Phạm Hữu Phú từ nhiệm chức chủ tịch hội đồng quản trị Sacombank để trở lại vị trí tổng giám đốc Eximbank tại đại hội đồng cổ đông 2014. Hội đồng quản trị Eximbank sau đó chia số vốn đầu tư này làm hai phần cho ông Hạnh và ông Lý tiếp tục đại diện tại Sacombank.
Việc rút hết người của Eximbank tại Sacombank được thị trường dự đoán có hai khả năng xảy ra: Thứ nhất, Eximbank sẽ sớm chuyển nhượng phần vốn tại Sacombank cho nhà đầu tư khác. Điều này nếu xảy ra phải được cơ quan quản lý phê duyệt và giám sát. Với khối lượng cổ phần lớn đó, tương đương 6,4% ngân hàng Sacombank sau sáp nhập với Ngân hàng TMCP Phương Nam và hiện trị giá khoảng hơn 1.206 tỉ đồng theo giá trị sổ sách, cũng không dễ tìm người mua.
Kịch bản thứ hai, như thông tin chúng tôi đã đưa, một số cổ phần cổ phiếu của Eximbank do một số cổ đông cá nhân đứng tên đã được thu hồi và những cổ đông thật của số cổ phần này đã ủy quyền vô thời hạn, không hủy ngang toàn bộ số cổ phần đó cho Ngân hàng Nhà nước. Nếu không may, số cổ phần trên có thể rơi vào số cổ phần bị Ngân hàng Nhà nước thu hồi.
Ba trong số các thành viên hội đồng quản trị hiện tại của Eximbank có thể sẽ rời khỏi hội đồng quản trị trong quá trình xử lý những tồn tại của ngân hàng liên quan đến cổ phần - cổ phiếu.
Động thái này là một trong những hành động đầu tiên của việc thực hiện kết luận thanh tra tại Eximbank vừa được cơ quan quản lý ngành ngân hàng công bố.